Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

Tiếp và làm việc với đoàn làm phim HTV7 V/v quảng bá tiềm năng Du lịch Sóc Trăng



Ngày 23–24/8/2012, Ông Trịnh Công Lý, Giám đốc Trung tâm TTXTDL đã có buổi tiếp và làm việc cùng với nhóm biên tập viên chương trình Năng động Du lịch Việt trên kênh HTV7 do bà Nguyễn Kim Ngân làm trưởng nhóm. Cùng tham dự cuộc trao đổi còn có bà Lý Thị Phương – Trưởng phòng TTXTDL và một số cán bộ chuyên viên của Trung tâm.
Bà Nguyễn Kim Ngân, đại diện nhóm phóng viên, biên tập chương trình đã trình bày yêu cầu của đoàn về việc thực hiện một số tin, bài, phóng sự quảng bá tiềm năng du lịch Sóc Trăng qua các sự kiện như:
- Sóc Trăng tổ chức ngày hội Văn hóa – Thể thao ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch lần thứ VI năm 2012.
- Sóc Trăng kêu gọi đầu tư dự án Khu du lịch sinh thái rừng bần ngập mặn ven biển thuộc xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung.
- Tài nguyên du lịch Sóc Trăng đang dần được khai thác đầu tư.
- Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xúc tiến quảng bá du lịch Sóc Trăng từ nay đến 2015.
- Sóc Trăng xây dựng khu lâm viên giữa lòng thành phố.
Lãnh đạo và cán bộ Trung tâm TTXTDL đã hỗ trợ Đoàn trong quá trình chuẩn bị và thực hiện các bản tin, phóng sự như cung cấp tài liệu, kế hoạch công tác xúc tiến quảng bá du lịch trong những giai đoạn tiếp theo; giới thiệu về các lễ hội văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Khmer tại Sóc Trăng; liên hệ với đơn vị quản lý dự án các khu du lịch của tỉnh,…
Khi phóng sự tài liệu này được phát sóng sẽ góp phần quảng bá hình ảnh, điểm đến và tiềm năng du lịch của địa phương; thu hút ngày càng nhiều du khách trong và ngoài nước đến Sóc Trăng./.

Nguyễn Dũng

Hợp tác du lịch Việt Nam – Lào


         
Trong những năm qua, việc hợp tác du lịch Việt Nam – Lào đã có những bước phát triển vượt bậc thông qua các chương trình du lịch liên kết giữa hai nước với các quốc gia trên hành lang Kinh tế Đông Tây. Nguồn khách du lịch từ Việt Nam sang Lào và ngược lại đang ngày càng tăng lên bởi sự thu hút của những cảnh quan thiên nhiên quyến rũ, hoang sơ và văn hóa bản địa đặc sắc của cả hai quốc gia.
Quan hệ hợp tác du lịch giữa hai nước Việt Nam – Lào chính thức được thiết lập cách đây 21 năm đánh dấu bằng việc ký Hiệp định hợp tác du lịch song phương 1991. Cơ quan du lịch quốc gia hai nước thường xuyên trao đổi kinh nghiệm về xây dựng văn bản pháp luật, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, liên kết phát triển sản phẩm và quảng bá du lịch. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam mở chi nhánh và văn phòng đại diện du lịch tại Lào. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giữa hai quốc gia, Chính phủ hai nước đã miễn thị thực song phương cho công dân Việt Nam và Lào mang hộ chiếu phổ thông khi đi du lịch từ ngày 01/7/2004; thỏa thuận về việc tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hóa qua lại biên giới nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc khuyến khích hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước từ ngày 14/9/2007.
Từ năm 2005, ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia liên tục kết hợp tổ chức quảng bá tại hội chợ du lịch quốc tế thành phố Hồ Chí Minh (ITE HCM). Theo thống kê năm 2011, trao đổi khách du lịch giữa hai nước đạt trên 680.081 lượt, trong đó khách du lịch Việt Nam đến Lào đạt 561.586 lượt khách và khách du lịch Lào đến Việt Nam đạt 118.495 lượt. Bên cạnh hợp tác du lịch song phương, hai quốc gia còn hợp tác chặt chẽ trong các tổ chức, diễn đàn khu vực như ASEAN, GMS (Greater Mekong Subregion – Tổ chức các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong mở rộng).
Đặt biệt, năm 2012, Chính phủ đã chọn làm năm “Đoàn kết hữu nghị Việt Nam – Lào” nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày thiết lập mối quan hệ ngoại giao (05/9/1962) và 35 năm Ngày ký hiệp ước hữu nghị hợp tác Việt – Lào (18/7/1977). Từ đó, sẽ góp phần vào việc cũng cố và tăng cường mối quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác kinh tế về mọi mặt giữa hai quốc gia.
Việt Nam – Lào có cơ hội rất tốt để khai thác vị trí địa lý, tiềm năng và lợi thế của mình nhằm bổ sung cho nhau cùng phát triển. Việt Nam với thế mạnh về kinh tế và vận tải biển, có thể phát huy vai trò là cửa ngõ ngắn nhất ra biển tạo điều kiện cho Lào giao thương với các nước khu vực và quốc tế. Tương tự như vậy, với vị trí là trạm trung chuyển trong Tiểu vùng sông Mekong mở rộng, có lợi về vận tải và thương mại, Lào có thể giúp Việt Nam mở rộng thị thường vào nội địa Đông Nam Á, Châu Á.
Với những điều kiện rất thuận lợi, nỗ lực và quyết tâm của ngành Du lịch hai nước, tin tưởng rằng sự hợp tác du lịch giữa hai nước sẽ ngày càng phát triển, góp phần tích cực vào việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau, vun đắp tình hữu nghị, hợp tác phát triển giữa Chính phủ và nhân dân hai nước./. 

ND-Biên tập từ(http//:www.vietnamtourism.gov.vn)

Phục vụ nhạc dân tộc tại điểm tham quan chùa Dơi Sóc Trăng



         
Đến tham quan Chùa Dơi tại Tp.Sóc Trăng, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng lối kiến trúc độc đáo của chùa, quan sát của hàng nghìn con Dơi quạ treo mình trên các tán cây cổ thụ, mà còn được lắng nghe những âm thanh vui tươi, rộn rã, sôi nổi của dàn nhạc Ngũ âm hay du dương, trầm bổng, sâu lắng của dàn Nhạc cổ. Chùa Dơi là một trong số ít ngôi chùa tại Sóc Trăng còn lưu giữ trọn vẹn 02 dàn nhạc dân tộc truyền thống của người Khmer là Pin Piết (Ngũ âm) và Kh’sear (Nhạc dây). Đây là 02 bộ nhạc cụ quý báu, là biểu tượng của sự vui tươi, sung túc, ấm no,…thể hiện nét đẹp văn hóa, giàu tính nghệ thuật truyền thống.
          Mỗi bộ nhạc cụ được phân thành nhiều bộ phận với từng tên gọi, chức năng khác nhau và được thiết kế rất tinh xảo mà khi sử dụng không thể tách rời ra từng nhạc cụ vì như vậy sẽ làm mất đi sự phối âm hoàn chỉnh của nó. Tuy nhiên, có một điểm đặc biệt là khi hòa tấu thì một số nhạc cụ trong 02 dàn nhạc này vẫn có thể kết hợp với nhau tạo thành những âm thanh rất hấp dẫn.
          Dàn nhạc Pin Piết (Ngũ âm) có 07 nhạc cụ gồm: 02 dàn cồng Cuông-tuôch và Cuông-thôm (chất liệu đồng), Rôniêt-ek và Rô-neat-thung (chất liệu gỗ), Rô-niêt-dek (chất liệu sắt), 02 trống Sampo được bịt bằng da bò và cuối cùng là kèn Srôlay pin piết được làm bằng tre hoặc gỗ quý. Đối với dàn nhạc Kh’sear (Nhạc dây) gồm có: Truô sô (đàn Cò), Truô nguôk (đàn Gáo), Skôr (Trống), Khưm tuôch (đàn bán Nguyệt nhỏ), Khưm thum (đàn bán Nguyệt lớn), Ch’hưng (Chập chã) và cùng một số nhạc cụ khác.
          Đặc biệt, ở các nghệ nhân là họ có thể sử dụng 02 bộ nhạc để hòa tấu theo các bản nhạc của người Kinh, Khmer, Hoa và kể cả một số bài nhạc quốc tế. Theo quy định của chùa thì dàn nhạc Pin Piết (Ngũ âm) và Kh’sear (Nhạc dây) chỉ được sử dụng vào những dịp lễ hội. Ngày nay do nhu cầu phục vụ du khách nhà chùa đã mở rộng phạm vi sử dụng hơn. Du khách có thể đến chùa vào các ngày thứ bảy, chủ nhật hàng tuần và ngày 15, 30 âl hàng tháng, để trực tiếp thưởng thức phần biểu diễn âm nhạc và tìm hiểu thêm về 02 bộ nhạc cụ độc đáo này./.
Nguyễn Dũng

Mitting kỷ niệm 122 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh



Để tưởng nhớ đến công lao hy sinh to lớn của Bác, vào ngày 19/05 hàng năm Đảng, Nhà nước đều tổ chức những hoạt động mitting kỷ niệm tưởng nhớ đến Bác. Hòa cùng không khí chung của cả đất nước, năm nay ở xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng cũng đã diễn ra những hoạt động kỷ niệm 122 năm ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ sáng sớm, hàng nghìn người dân ở tất cả các ấp, xã và các em học sinh nô nức tập trung về Đền thờ Bác với những mâm xôi, trái cây cùng những nhánh hoa tươi thắm dâng lên Bác. Đúng 07h30 nghi thức mitting chính thức được tiến hành. Dẫn đầu đoàn người tiến vào Đền thờ là 06 chiến sĩ bộ đội cụ Hồ trong tư thế cúi đầu nghiêm trang dâng 03 vòng hoa lên Bác, được đặt trang trọng ngay trung tâm Đền thờ thể hiện lòng thành kính và tiếc thương vô hạn đối với vị lãnh tụ, người Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, các đồng chí lãnh đạo, các bậc lão thành cách mạng, các em học sinh – những thế hệ tương lai của đất nước và hàng nghìn người dân tiến vào thắp hương tưởng niệm Bác.
Mitting kỷ niệm 122 năm ngày sinh của Bác năm nay cùng ngày với huyện Cù Lao Dung kỷ niệm 10 năm thành lập và danh dự được đón nhận Huân chương lao động hạng ba, nên được tổ chức với quy mô lớn, không khí rất nghiêm trang, có sự tham dự của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, cùng nhiều đồng chí thuộc một số các cấp lãnh đạo ban, ngành, đoàn thể và các huyện.
Bên cạnh đó, việc xây dựng mới đền thờ Bác cũng đang trong giai đoạn khẩn trương hoàn thành. Đền xây dựng theo kiểu 3 gian 2 mái, theo phong cách nhà thuần Việt với diện tích gần 6.700m2. Bao gồm các hạng mục như: đền chính, cổng chính, nhà lưu niệm, sân lễ, công trình cây xanh, điện, nước,… Đền được bố trí trên ý tưởng hoa sen cách điệu, lấy đền chính làm trung tâm hoa sen, 2 bên tả, hữu là 2 ao sen. Phía trước có sân rộng là nơi sinh hoạt cho thanh, thiếu niên, các hoạt động về nguồn, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Tổng kinh phí xây dựng trên 16 tỷ, trích từ ngân sách nhà nước và một phần vận động nhân dân trong tỉnh.

Thanh Dũng

Kết quả tổng hợp nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lưu trú và ăn uống trong tỉnh Sóc Trăng



Nhằm chuẩn bị cho kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Sóc Trăng, Trung tâm TTXTDL đã lập bảng khảo sát gửi đến 20 doanh nghiệp điển hình gồm 18 khách sạn và 02 nhà hàng trong TP.Sóc Trăng nhằm nghiên cứu tiếp nhận ý kiến đóng góp, đề xuất nhu cầu đào tạo nhân lực năm 2013 và những năm tiếp theo. Các doanh nghiệp đã phản hồi, kết quả tổng hợp như sau:
- Đào tạo cấp quản lý ở mức độ rất cần thiết chiếm 43,7% và đào tạo cấp nhân viên ở mức độ rất cần thiết và cần thiết đạt tỷ lệ 50% trên tổng số phiếu thu vào.
- Nhu cầu của các doanh nghiệp về việc mở các lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn chiếm số phiếu cao nhất là: Lớp nghiệp vụ lễ tân chiếm 68,7%, lớp quản lý nhà hàng – khách sạn chiếm 62,5% trên tổng số phiếu thu vào.
          - Về thời gian đào tạo thích hợp cho một số lớp nghiệp vụ, các doanh nghiệp chủ yếu chọn vào 06 tháng đầu năm 2013 và chiếm 62,5% trên tổng số phiếu thu vào.
          - Về mục tiêu đào tạo của các doanh nghiệp nhằm chủ yếu rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn cho cấp nhân viên chiếm 81,2% và kỹ năng quản lý chiếm 50% trên tổng số phiếu thu vào.
          Với kết quả khảo sát thu được như trên, Trung tâm TTXTDL sẽ lập kế hoạch phù hợp với nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp du lịch trong tỉnh. Trong năm 2013, Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch sẽ xin ý kiến Sở VHTTDL  mở một số lớp nghiệp vụ ngắn hạn như:
          - Nghiệp vụ phòng.
          - Nghiệp vụ quản lý khách sạn vừa và nhỏ.
          - Nghiệp vụ pha chế.
          - Nghiệp vụ lễ tân./.

Nguyễn Dũng

“Ngày hội Văn hóa – Thể thao” ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng lần thứ VI – 2012


Hướng tới chào mừng kỷ niệm 67 năm ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 -  19/8/2012), Quốc khánh Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 – 02/9/2012) và 67 năm ngày thành lập ngành Văn hóa Thông tin (28/8/1945 – 28/8/2012). Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng vừa ký ban hành kế hoạch tổ chức “Ngày hội Văn hóa – Thể thao” ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng lần thứ VI – 2012.
Theo kế hoạch Ngày Hội sẽ được diễn ra vào 02 ngày là 24 – 25/8/2012 (thứ sáu và thứ bảy) với nhiều nội dung thi đấu gồm:
- Thi đấu thể thao: Bóng đá mini, Bi sắt, Cầu lông, Quần vợt, Bida.
- Trò chơi dân gian: Trò chơi liên hoàn, thi cờ carô, nhảy dây tập thể.
- Thi hát Karaoke.
- Thi cắt dán.
Đối tượng tham gia Hội thao là tất cả các cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên là đoàn viên Công đoàn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội viên Hội Cựu chiến binh hiện công tác tại các phòng, đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Phòng Văn hóa và Thông tin; Trung tâm Văn hóa; Trung tâm Thể dục Thể thao của các huyện, thị xã, thành phố.
Trung tâm TTXTDL đã triển khai kế hoạch của Sở, lập danh sách đăng ký tham dự một số môn thi đấu như: Bi sắt, Cầu lông, Quần vợt, Cờ carô, thi cắt dán, hát karaoke,…
“Ngày hội Văn hóa – Thể thao” được tổ chức hàng năm còn là một hoạt động tích cực để hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại”. Đây cũng là dịp để cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong toàn ngành giao lưu, trao đổi, học tập trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; góp phần rèn luyện nâng cao sức khỏe, tăng cường thể lực, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, nhằm phục vụ tích cực cho việc học tập lao động và hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao./.

Nguyễn Dũng

Hấp dẫn những món ngon từ cua đồng Nam Bộ


             Trên ruộng đồng Nam Bộ, khi ruộng lúa bắt đầu lên xanh mơn mởn, sau những trận mưa lớn xuất hiện nhiều Cua đồng. Cua đồng sinh sản quanh năm, cua con nở rộ vào khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch và làm hang ở các bờ ruộng, rãnh cày. Cua cái nhỏ hơn cua đực, nhưng số lượng nhiều hơn.
Chế biến cua đồng đơn giản nhất là cho vào nồi luộc, chấm nước mắm tỏi ớt kẹp lát bần chua ăn chơi. Một cách khác là rửa sạch, chặt bỏ ngoe, xào mặn với tóp mỡ ăn cơm cũng rất ngon miệng. Cua đồng nướng than hồng hay rang với chút muối, mỡ cũng rất được bọn trẻ ưa thích. Món canh chua cua đồng khá phổ biến với người Nam Bộ. Cua rửa sạch, giã nhuyễn lọc lấy nước, nêm gia vị, nấu sôi cùng rau nhút. Gạch cua chưng riêng với trứng, màu vàng ươm thơm phức, múc chan lên trên tô bún cua rau nhút nóng hổi. Rồi còn món canh Cua nấu với rau ngót, rau sam, rau đay, hoa thiên lý,...            
 Nấu bánh canh cua thì công phu ở chỗ xay bột gạo ngon, xắt miếng, cho vào thau nước lạnh rồi vớt ra để ráo. Cua đồng gỡ lấy gạch để riêng, thịt vỏ đâm nhuyễn, pha nước lạnh, vắt lọc bỏ xác. Khi nồi nước sôi, cho tất cả vào, nêm gia vị, múc ra tô, rắc hành tiêu cho thơm. Có người thích cho thêm nước cốt dừa tăng vị béo. Ăn tô bánh canh cua đồng bột xắt, thấm thía, cảm nhận khó quên cái màu trắng đục như sữa tan ra từ bột vụn, qua bàn tay ân cần của người mẹ, người chị chân quê.
Cua đồng còn làm được nhiều loại mắm. Mắm cua tươi ăn liền thì giã nhuyễn, rưới nước lạnh vào lược kỹ, cho ít muối, đun sôi cùng vài lát gừng, ớt, măng tươi. Ăn với cơm hay bún, rau thơm, rau luộc. Mắm cua chua thì để được lâu ngày hơn. Cua rửa sạch, giã nhuyễn lọc lấy nước, nêm muối vừa ăn, cho vào chai thủy tinh, đậy nắp đem phơi chừng ba nắng tốt. Mùa mưa thì để chai cạnh bếp lửa, sau một tuần là dùng được. Có nơi cho nước cua vào hũ sành đậy kín, để ăn dần cả tuần lễ. Nếu chịu khó vài hôm dùng đũa bếp khuấy đều sẽ để được vài tháng không ngả mùi. Mắm cua chua kho cá đồng mới thật hết ý. Cá lóc nướng sơ qua cho vào ơ đất, đổ nước mắm cua xăm xắp cùng vài lát gừng, ớt, chụm lửa riu riu. Các vị mặn, ngọt, thơm, nồng hòa quyện cùng nồi cơm gạo mới, ăn đến đã thèm./.
(TD – biên tập lại từ http://amthuc- baomoi.com)

Cháo trắng - cá Bống kho


Nếu ăn để lấy no,chắc hẳn món cháo không phải là lựa chọn tốt nhất. Nhưng để lót dạ lúc về đêm, cháo lại là sự lựa chọn hoàn hảo. Bởi trước khi đi ngủ, ăn cháo vừa nhẹ bụng lại không mất nhiều thời gian. Đặc biệt là món cháo trắng.
          Nguyên liệu chính để nấu cháo là gạo và nước. Để có nồi cháo có độ sánh vừa phải, thường thì thể tích nước phải hơn gấp 3 lần thể tích gạo và một cái nồi chỉ dành cho việc nấu cháo. Bắt đầu nấu thì cần ngọn lửa rực đủ mạnh để hạt gạo trong nước sôi nở bung ra, rồi những ngọn để liu riu và gom góp hơi nóng đều đều cho hạt gạo được chín nhừ, nấu càng lâu thì cháo càng đặc, hầm vừa phải đến khi hạt gạo nở bung trong làn nước đục ngà của tinh chất từ hạt gạo.
Cá bống kho
Một chén cháo trắng bình thường hình như chẳng có gì đặc sắc. Tất nhiên, cái hay của cháo trắng không đơn giản là thế. Bởi, ăn với món cháo đơn sơ này là vô vàn những thức ăn kèm hấp dẫn và dân dã. Nói là thức ăn kèm thôi, nhưng để chế biến thành công những món này cũng hết sức kỳ công và phức tạp.
Từ trước đến nay mọi người quen ăn cháo trắng kèm với hột vịt muối (trứng vịt muối mặn) hay hột vịt bắc thảo và nó như đã trở thành thói quen trong tâm thức của con người khi ngĩ về cháo trắng. Nhưng đâu ai biết được một điều rằng, ngoài hột vịt muối vẫn còn có những món ngon khác được ăn kèm với cháo trắng cũng không kém phần hấp dẫn và đôi khi lại vượt trội hơn hột vịt muối trong sự lựa chọn của người ăn. Trong những món ăn đó thì “cá bống kho tiêu” được xem là sự lựa chọn hàng đầu của thực khách.
Cá bống chọn đem kho thường là cá bống có kích cỡ nhỏ bằng đũa ăn, kho cá bống nghe thì đơn giản, nhưng đảo cá, thêm bớt lửa thế nào đều phụ thuộc vào tay nghề người chế biến. Nồi cá dậy mùi thơm, những con cá bống được kho cong, hòa với lớp nước kho màu vàng cánh gián, nhìn rất ngon mắt.
Gắp và cắn một miếng cá bống kho tiêu, húp một ngụm cháo trắng. Chúng ta sẽ cảm nhận được vị cay nồng của tiêu, vị mặn có hậu ngọt thanh, mùi thơm nhẹ và độ dai của cá hòa quyện cùng hương vị của hạt gạo đem lại cho thực khách một cảm giác khó quên.
Quán cháo trên đường Lê Lợi - Tp. Sóc Trăng không thuộc hạng cao sang, không gian có phần hơi hẹp nhưng với hương thơm ngào ngạt của bát cháo nóng hổi trong cái không gian hạn chế ấy lại tạo cho con người rất nhiều điều thú vị.

Nguyễn Dũng

Ngôi chùa trong đời sống của người Khmer


Đồng bào dân tộc Khmer ở ĐBSCL có hơn 1.3 triệu người, hiện đang cư trú xen kẻ cùng với người Kinh, Hoa và một số dân tộc khác, tập trung đông nhất ở các tỉnh: Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang. Là một dân tộc gắn với Phật giáo Nam tông nên trong các phum, sóc của người Khmer đều có chùa để người dân đến thực hiện các nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng.
Ngôi chùa đối với người Khmer mang một tình cảm sâu sắc vì chùa là nơi thờ Phật, nơi lưu giữ hài cốt của tổ tiên và điều mong ước của con người đang sống là khi mất đi được nhập tịch vào chùa để sống cuộc đời Phật pháp. Mỗi ngôi chùa là một công trình kiến trúc độc đáo, tiêu biểu trong khuôn viên, ẩn mình dưới tán lá của những cây cổ thụ như: cây dầu, cây sao hay cây thốt nốt. Vì thế, ngôi chùa trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa, cộng đồng, lưu giữ những giá trị văn hóa của người Khmer và là nơi các sư sãi sinh sống.
Chánh điện chùa Khl'eang
Có thể nói, lý tưởng sống truyền thống của người Khmer là đạo Phật, con người phải rèn luyện theo đạo pháp. Theo quy định chung, sư sãi phải tụng kinh ngày 3 lần: sáng, trưa và chiều. Còn phật tử mỗi tháng lên chùa tụng kinh 6 lần, nhất là vào các ngày 15, 30 âl hàng tháng. Thông thường ở mỗi sóc người Khmer đều có một ngôi chùa. Mỗi ngôi chùa trung bình có từ 15 đến 30 vị sư. Đời sống của các vị sư được duy trì bằng sự quyên góp, cúng tiến của người dân và đó được xem là một niềm tự hào, hạnh phúc trong cuộc sống của người Khmer.
Đối với mỗi người con trai Khmer, dù thuộc bất cứ tầng lớp xã hội nào đều phải đi tu để rèn luyện nhân cách, học giáo lý phật pháp. Về nguyên tắc, đi tu lúc 12 đến 20 tuổi là trả ơn mẹ, từ 21 tuổi trở lên là trả hiếu cha. Họ xem việc đi tu là nghĩa vụ và vinh dự của cuộc đời. Qua đó cho ta thấy, ngôi chùa là nơi giáo dục, rèn luyện thanh thiếu niên về phẩm chất và đạo đức.
Chùa bao giờ cũng được xây dựng ở nơi cao ráo, bằng phẳng. Ngôi chánh điện được quy định luôn luôn quay về hướng trời mọc. Chánh điện là nơi cử hành các cuộc lễ lớn: lễ Phật Đản, lễ nhập Hạ, lễ xuất Hạ, tết Chôl Chnăm Thmây, lễ Ooc- om-boc, lễ Dolta,…Ngoài ý nghĩa là trung tâm thờ Phật, Chánh điện còn là nơi tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc và trang trí của người Khmer. Lễ hội thường gắn với các hình thức biểu diễn văn hóa, văn nghệ truyền thống của dân tộc như: nghệ thuật sân khấu Dù Kê, kịch múa Rô Băm, múa dân gian Sarawan, Rom vong. Hiện nay, mỗi ngôi chùa của người Khmer thường có phòng đọc sách, trường học chữ, học giáo lý,… Mỗi ngôi chùa đều có bia ghi lại ngày xây dựng, trùng tu chùa, giúp mọi người hiểu được lịch sử quy tụ con người từ buổi đầu khai phá vùng đất mới, lập nên những phum, sóc ngày càng phát triển.
            Ngôi chùa trong cộng đồng người Khmer được tạo nên từ những nét đặc sắc của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc, thể hiện sự giao thoa với văn hóa cộng đồng người Kinh – Hoa Nam Bộ, góp phần làm giàu thêm sự phong phú trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam.
ND - tổng hợp(http://www.bienphongvietnam.vn) 

Cây Thốt nốt – Biểu tượng văn hóa của người Khmer


Cây Thốt nốt – Biểu tượng văn hóa của người Khmer

Đối với người Khmer, thốt nốt không phải là một loài thực vật thuần túy mà là một loại cây đặc biệt, có tính biểu trưng rất cao. Do vậy, sẽ không có gì ngạc nhiên khi thấy cây thốt nốt luôn hiện hữu và là một phần không thể tách rời trong đời sống của người Khmer.
          Ở nước ta, không rõ loài cây này có từ bao giờ, nhưng trong mắt người Việt Nam cây thốt nốt luôn được xem là một biểu tượng văn hóa đi kèm với người Khmer. Bởi khi xét ở nhiều phương diện, cây thốt nốt không chỉ tượng trưng cho tâm hồn, tính cách của người Khmer, mà nó còn tượng trưng cho văn hóa của họ.
          Có thể nói, trong đời sống thường nhật người Khmer chưa bao giờ tách khỏi cây thốt nốt. Từ nó, người ta có thể làm ra rất nhiều sản phẩm độc đáo góp phần cải thiện không nhỏ đời sống như: bánh thốt nốt, đường thốt nốt, chè thốt nốt, đũa thốt nốt, rổ thốt nốt, quạt thốt nốt,…Ngoài các sản phẩm trên, cây thốt nốt còn được xem là biểu tượng cho đức tính nhẫn nại, chịu khó của người Khmer. Họ thường sống ở những cụm đất cao (đất dòng) khô cằn và kém màu mỡ. Tuy nhiên, cho dù quanh năm phải làm trên cánh đồng cháy nắng, mùa màng thất bát nhưng họ luôn cần mẫn với những gì thiên nhiên ban tặng, chấp nhận cải tạo nó để cuộc sống tốt đẹp hơn và hài lòng với cuộc sống của mình. Trong khi đó, dù đất đai khô cằn, khí hậu khắc nghiệt nhưng cây thốt nốt vẫn vươn cao không ngại, chung thủy với vùng đất mình đang sống, vẫn cho trái ngọt, che chở và gắn bó với người Khmer từ thế hệ này sang thế hệ khác.
          Bề ngoài thân cây xù xì, gai góc nhưng có lá tròn, xòe ra xanh mướt làm toát lên vẻ đẹp hết sức mộc mạc, đơn sơ, điều này làm ta liên tưởng đến tính cách của người dân Khmer chân chất, đơn giản nhưng lại vô cùng thân thiện, không chú trọng lắm đến hình thức bên ngoài, nét đẹp của họ thường được bộc lộ từ bên trong, giúp người như giúp bản thân, không câu nệ từng lời ăn tiếng nói,…tất cả tạo nên vẻ đẹp giản dị, chất phác, một tâm hồn trong sáng là cái cốt lõi của mỗi con người Khmer. Đó là một đức tính quý báu mà ai cũng phải nể phục và tôn trọng.
          Từ những yếu tố trên cho thấy cây thốt nốt có vị trí rất đặc biệt đối với người Khmer. Đó là một hình tượng mà dường như đã cô đọng được những nét cốt lõi nhất trong văn hóa của một dân tộc. Tin tưởng rằng, dù có thế nào đi nữa, cây thốt nốt vẫn luôn là một biểu tượng văn hóa tồn tại mãi mãi trong lòng đồng bào dân tộc Khmer.
Nguyễn Dũng

Cù Lao Dung sau 10 năm xây dựng và phát triển


Cù Lao Dung sau 10 năm xây dựng và phát triển

        Cù Lao Dung được tách ra từ huyện Long Phú vào năm 2002, là một huyện mới, còn nghèo và chưa ổn định nên gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, cơ cấu quản lý nhà nước, hệ thống đường – trường – trạm còn thiếu trầm trọng, đời sống người dân vô cùng khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo còn rất cao. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực nâng cao và ổn định mức sống của người dân cũng như thúc đẩy sự phát triển về kinh tế - xã hội của huyện nhà, trong 10 năm xây dựng và phát triển Huyện ủy, UBND huyện luôn chú trọng thực thi các chính sách an sinh xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, xây dựng mới và tu bổ lại hệ thống trường học đạt chuẩn quốc gia cấp I, II và trường mẫu giáo ở mỗi xã như: Trung học cơ sở An Thạnh I, Tiểu học Cù Lao Dung, Tiểu học An Thạnh 3A,… Cùng với đó nâng cấp Bệnh viện đa khoa Cù Lao Dung và xây mới thêm các trạm y tế ở mỗi xã.
          Đặc biệt, do vị trí nằm giữa hai cửa biển Định An và Trần Đề chia cách với đất liền nên việc phát triển, xây dựng mới hệ thống giao thông là một vấn đề đặc biệt cần thiết, mắc xích quan trọng rút ngắn khoảng cách với các vùng lân cận, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ sự giao thương đi lại của người dân trong huyện. Những tuyến đường nhỏ hẹp, lầy lội vào mùa mưa, nắng bụi vào mùa khô nay đã được thay thế bằng những con đường nhựa, dal nối liền về các ấp, các xã. Những tuyến giao thông nông thôn này không chỉ tạo ra bộ mặt mới mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân trên địa bàn. Hiện nay 95% các xã đều có đường ôtô đến tận trung tâm.
 Bên cạnh việc xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, huyện Cù Lao Dung còn được Trung ương đầu tư xây dựng và mở rộng một số công trình quan trọng như: tuyến đê bao tả - hữu Cù Lao Dung, tuyến Quốc lộ 60 từ trung tâm TP.Sóc Trăng đi qua địa bàn huyện nối với Trà Vinh và một số tỉnh khác. Đối với người dân Cù Lao Dung việc được sử dụng điện là mơ ước của bao thế hệ, nên sau khi chia tách Đảng bộ huyện đã tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, đưa lưới điện quốc gia đến các ấp, xã. Đến nay 100% hộ dân trong huyện đã được sử dụng điện trong sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, tỉnh cũng đang kêu gọi nhà đầu tư vào khai thác và phát triển dự án du lịch sinh thái rừng Bần ngập mặn ven biển thuộc xã An Thạnh Nam có diện tích khoảng 200ha. Đây là lợi thế rất lớn giúp cho kinh tế của huyện tăng trưởng mạnh trong những giai đoạn mới. Huyện cũng xây mới và mở rộng đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc xã An Thạnh Đông để phục vụ cho nhu cầu của nhân dân trong những dịp lễ, tết và trở thành điểm du lịch hấp dẫn du khách đến tham quan.
          Hy vọng rằng với những thành tựu đã đạt được sau 10 năm thành lập sẽ là tiền đề vững chắc giúp cho huyện Cù Lao Dung tiếp tục phát triển tốt hơn trong giai đoạn mới. Đảng bộ, Huyện ủy, UBND huyện cùng nhân dân sẽ tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng theo lời dạy của Bác, cùng chung sức, đoàn kết một lòng xây dựng Cù Lao Dung ngày càng trở nên giàu đẹp.
Thanh Dũng

Việt Nam công bố 9 kỷ lục trong lĩnh vực biển và hải đảo


Việt Nam công bố 9 kỷ lục trong lĩnh vực biển và hải đảo



Nhân tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam được diễn ra từ ngày 05 – 08/6/2012 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với sự hỗ trợ của Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam chính thức công bố 9 kỷ lục Việt Nam trong lĩnh vực biển và hải đảo. Các tiêu chí để đánh giá kỷ lục Việt Nam về biển và hải đảo gồm có: bãi biển dài nhất, quần đảo nhiều đảo nhất, đảo xa bờ nhất, đảo gần xích đạo nhất…
Những kỷ lục về biển và hải đảo bao gồm:
- Quần đảo xa bờ nhất (quần đảo Trường Sa - Khánh Hòa) nằm giữa biển Đông về phía Đông Nam nước ta, phía Bắc là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, phía Đông giáp biển Philippines, phía Nam giáp biển Malaysia, Brunei và Indonesia. Cách vịnh Cam Ranh 243 hải lý và cách TP.Vũng Tàu 440 hải lý.
- Vịnh có nhiều đảo nhỏ nhất (Vịnh Hạ Long - Quảng Ninh) với diện tích 1.553 km², bao gồm 1.169 đảo lớn, nhỏ. Vịnh Hạ Long đã được công nhận là di tích danh thắng cấp quốc gia và di sản thiên nhiên thế giới.
- Bãi biển dài nhất (bãi biển Trà Cổ - Quảng Ninh) có chiều dài 17 km, giáp ranh giữa Việt Nam và Trung Quốc, diện tích khoảng 170 ha, cong hình vành khuyên, trải từ Mũi Gót phía bắc đến Mũi Ngọc ở phía nam.
-  Đầm phá lớn nhất (phá Tam Giang - Cầu Hai, Thừa Thiên Huế) diện tích 21.600 ha, chiếm 48,2% tổng số diện tích mặt nước các đầm phá ven bờ Việt Nam. 
- Quần đảo có nhiều đảo nhất (quần đảo Cát Bà - Quảng Ninh) với 367 hòn đảo lớn, nhỏ nằm ở phía Nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi TP.Hải Phòng.  
- Cụm đảo gần xích đạo nhất (đảo Hòn Khoai - Cà Mau) có diện tích 4,96 km2 gồm 5 đảo nhỏ, cụm đảo có tọa độ từ 8°22’46” đến 8°27’30” độ vĩ Bắc và từ 104°48’30” đến 104°52’30” độ kinh Đông.
- Hòn đảo lớn nhất (đảo Phú Quốc - Kiên Giang) với diện tích 561 km², cách TP.Rạch Giá 116 km và cách thị xã Hà Tiên 45 km.
- Khu bảo tồn biển Việt Nam lớn nhất (Khu bảo tồn biển Nam Yết - Khánh Hòa) có tổng diện tích là 35.000 ha, trong đó diện tích biển là 20.000 ha và toàn bộ diện tích đảo rạn san hô Nam Yết là 15.000 ha. Cách TP Nha Trang khoảng 450 km.
- Huyện đảo có mật độ dân số lớn nhất (huyện đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi) cách TP Quảng Ngãi 45 km về phía Đông Bắc, có tổng diện tích đất là 9,97 km2, dân số hiện nay hơn 21.000 người, là huyện đảo có mật độ dân số cao nhất trong 12 huyện đảo của Việt Nam.
Ngoài ra, nhân ngày môi trường thế giới (05/6), Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam còn công bố 7 kỷ lục mới về môi trường gồm: Trung tâm cứu hộ và cho sinh sản các loài Linh trưởng đang bị nguy cấp trong điều kiện nuôi nhốt với số lượng lớn nhất (Vườn quốc gia Cúc Phương - Ninh Bình); Hồ nước ngọt tự nhiên trên núi đá vôi độc đáo nhất (hồ Ba Bể - Bắc Kạn); Nơi lưu giữ và bảo tồn bộ mẫu sinh vật biển lớn nhất (Viện Hải dương học - TP. Nha Trang); Nhà máy chế biến rác thải nilon thành dầu đầu tiên tại Việt Nam (Công ty CP Môi trường Việt Nam - TP. Đà Nẵng); Hệ thống điện năng lượng mặt trời đang hoạt động có quy mô lớn nhất (Công ty TNHH Intel Products Việt Nam ở Khu Công nghệ cao, quận 9, TP.HCM); Hồ nước nhân tạo lớn nhất (hồ Thác Bà - Yên Bái); Nhà máy điện gió lớn nhất (Công ty Cổ phần Năng lượng Tái tạo Việt Nam tại xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận).
Việc công bố kỷ lục góp phần quảng bá rộng rãi hình ảnh biển, đảo, môi trường thân thiện của Việt Nam đến du khách trong và ngoài nước. Đó là một trong những nền tảng vững chắc để xây dựng và phát triển thương hiệu biển, thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững, phát huy thế mạnh của kinh tế biển Việt Nam nói chung và kinh tế hải đảo nói riêng.

   TD – Biên tập lại từ (http://xahoi-VN Express.com)
(http://xahoi-thethaovanhoa.vn)

Giới thiệu chương trình tour tham quan 01 ngày tại Sóc Trăng



Giới thiệu chương trình tour tham quan 01 ngày tại Sóc Trăng

Sóc Trăng là một vùng đất có nhiều điểm đến du lịch lý thú với những ngôi chùa mang kiến trúc độc đáo và những lễ hội văn hóa đặc sắc của ba dân tộc Kinh – Khmer – Hoa. Ngoài ra, Sóc Trăng còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử với những dấu ấn để lại qua các di tích và những cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Bên cạnh đó, tỉnh còn có nhiều dự án du lịch trọng điểm đang kêu gọi thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước.
          Để giới thiệu điểm tham quan du lịch, giúp du khách có thể hiểu thêm về Sóc Trăng, Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch tỉnh Sóc Trăng xin giới thiệu với du khách 02 tour tham quan du lịch, mỗi tour có thời gian 01 ngày bao gồm: “City tour” và “Hành trình về với thiên nhiên”.
          * Chương trình “City tour”:
          Trong chương trình du lịch này du khách sẽ được tham quan và tìm hiểu 07 điểm đến: Điểm dừng chân Tân Huê Viên, Bảo tàng tỉnh Sóc Trăng, Nhà trưng bày Khu di tích lịch sử đón đoàn tù chính trị, Phòng Trưng bày Văn hóa Khmer (buổi sáng); chùa Dơi, chùa La Hán, chùa Đất Sét (buổi chiều).
          * Chương trình “Hành trình về với thiên nhiên”:
          Theo chương trình tour này quý khách sẽ viếng thăm các điểm: Bảo tàng tỉnh Sóc Trăng, chùa Đất Sét, Nhà lưu niệm Bác sĩ Nông học Lương Định Của (buổi sáng); khảo sát về cửa sông Bassac, tìm hiểu thương cảng Bãi Xàu xưa, chùa Dơi, Điểm dừng chân  Tân Huê Viên (buổi chiều).
Thông qua 02 tour du lịch trên sẽ giúp cho du khách trải nghiệm và hiểu thêm về vùng đất, con người Sóc Trăng; về kiến trúc của từng ngôi chùa; về quá trình bồi đắp của các cửa sông; về các loài động, thực vật đặc trưng của hệ sinh thái rừng phòng hộ ven biển của tỉnh.
Mọi chi tiết vui lòng liên hệ:
Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch tỉnh Sóc Trăng
                   Số 50, đường Lê Duẩn, P3, Tp. Sóc Trăng.
                      ĐT: 0793.624.694;  Fax: 0793.624.694
                               Website: dulichsoctrang.org.
               hoặc Thanh Dũng (Phòng Thông tin Xúc tiến Du lịch)
                                       ĐT: 0976.978.261

Đoàn Trung tâm TTXTDL làm việc với khách sạn Tín Hòa


Đoàn Trung tâm TTXTDL làm việc với khách sạn Tín Hòa

Ngày 06/6/2012 đoàn Trung tâm TTXTDL tỉnh Sóc Trăng gồm trưởng đoàn là ông Trịnh Công Lý – Giám đốc Trung  tâm TTXTDL và một số cán bộ, chuyên viên của Trung tâm đã có chuyến làm việc tại khách sạn Tín Hòa. Địa chỉ: số 20, Lê Duẩn - P3 - TP.Sóc Trăng. Tại đây đoàn đã có cuộc tiếp xúc cùng với bà Huỳnh Hoàng Diệu, Phó Giám đốc điều hành khách sạn.
          Nội dung làm việc của đoàn khảo sát Trung tâm TTXTDL với khách sạn chủ yếu xoay quanh một số vấn đề về công tác xúc tiến nhằm hướng đến việc tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị trong lĩnh vực du lịch diễn ra trong khoảng thời gian tới. Bên cạnh đó, đoàn Trung tâm TTXTDL còn trao đổi những ý kiến để tạo điều kiện cho khách sạn tham gia vào Hiệp hội Du lịch của tỉnh Sóc Trăng, nhân tiện cử nhân viên của khách sạn tham gia 02 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch: phục vụ bàn và lễ tân.
Ngoài ra, hai bên cũng đã trao đổi thêm với nhau về việc liên kết website, quảng cáo hình ảnh khách sạn trên trang web: dulichsoctrang.org và trên Bản tin du lịch của tỉnh, về đề nghị thẩm định và phân loại xếp hạng cơ sở lưu trú.
          Khách sạn có vị trí khá thuận lợi không gian thoáng mát, sạch đẹp có: phòng hội thảo, phòng ăn, bãi giữ xe ôtô, xe máy. Về phân loại cơ số phòng, khách sạn có 45 phòng ngủ và được chia làm 5 loại khác nhau. Trong đó có 08 phòng Vip. Diện tích của các phòng tương đối rộng và thoáng. Nội thất bên trong được trang bị hiện đại và bày trí hài hòa .
          Kết thúc cuộc làm việc hai bên đã đạt được những kết quả khả quan và hướng tới hợp tác tốt hơn trong thời gian tiếp theo./.
Thanh Dũng
          

Tết Chôl Chnam Thmây của dân tộc Khmer Nam Bộ


Tết Chôl Chnam Thmây của dân tộc Khmer Nam Bộ

Vùng đất Sóc Trăng với nhiều thành phần dân tộc khác nhau nhưng nhiều nhất vẫn là 3 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa anh em. Sự kết hợp và giao thoa văn hóa hài hòa giữa 3 dân tộc đã tạo cho Sóc Trăng những nét văn hóa riêng, phong phú và đặc sắc.
Trong các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer có 3 lễ hội được xem quan trọng và gắn liền với đời sống tâm linh đó là: Chôl Chnam Thmây, Dolta và Ooc-Om-Boc. Lễ Chôl Chnam Thmây tức “lễ vào năm mới” hay còn được gọi là “lễ chịu tuổi” đọc theo phát âm Khmer là “Bôn Châul Chnam Thmei”.
Chôl Chnam Thmây là Tết mừng năm mới theo lịch cổ truyền của dân tộc Khmer Nam Bộ. Tết Chôl Chnam Thmây cũng là ngày Tết của Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma, Sri Lanka. Ngoài tôn giáo chính là Phật giáo, người Khmer còn tin rằng mỗi năm có một vị thần trên trời (Têvađa) được sai xuống để chăm lo cho cuộc sống và con người trong năm đó, hết năm lại về trời để vị thần khác xuống hạ giới.
Theo thông lệ vào ngày này gia đình nào cũng tập trung ăn mặc đẹp, các trẻ em được may sắm những bộ quần áo mới. Mọi nhà đều quét dọn, trang trí lại, chuẩn bị đồ ăn thức uống đầy đủ cho những ngày tết... Mọi công việc thường ngày đều dừng lại, mọi người nghỉ ngơi. Người người hào hứng chuẩn bị cho ngày tết như sửa sang nhà cửa, mua sắm quần áo. Đối với nông dân các chuồng trâu, chuồng bò đều phải đầy rơm đầy rạ. Trong các ngày diễn ra lễ hội mọi người đi thăm hỏi lẫn nhau, chúc nhau tài lộc, sức khoẻ, phát đạt.
Tết của dân tộc Khmer Nam Bộ thường được tổ chức khoảng đầu tháng Chét của lịch Phật giáo Khmer (khoảng giữa tháng 4 dương lịch). Kéo dài trong 3 ngày, năm nhuận kéo dài 4 ngày, tên gọi mỗi ngày tết khác nhau:
- Ngày thứ nhất (Châul Sang Kran Thmei): Là ngày làm lễ rước đại lịch gọi là “Maha Sâng Kran”.
- Ngày thứ hai (Wonbât): Là ngày làm lễ dâng cơm và đắp núi cát gọi là “Pun Phrôm Khoach”, nếu là năm nhuần thì có 2 ngày Wonbât.
- Ngày thứ ba (Lơng săk): Là ngày làm lễ tắm tượng Phật và tắm các vị sư cao tuổi.
Vào đêm giao thừa nhà nào cũng làm cỗ, thắp hương, đốt đèn, cúng tiễn đưa vị Têvađa cũ, đón rước Têvađa mới. Trên bàn thờ có bày sẵn 5 nhánh hoa, 5 cây đèn cầy, 5 cây nhang, 5 hạt cốm và nhiều loại cây quả. Cả gia đình ngồi nghiêm trang trước bàn thờ tổ tiên, khấn vái, mong và tin rằng sẽ được thần ban phước lành. Đặc biệt là vào buổi tối không khí lễ hội càng trở nên sinh động hơn bởi các nghệ sĩ trình diễn các điệu múa lăm-thol, hát rô-băm, hát dù-kê, hát a-day, thi đấu cờ ốc, kéo co, đấu võ, đi cà kheo, biểu diễn trang phục dân tộc... Tiếng trống xa-dăm, tiếng kèn, tiếng thanh la rộn ràng, sôi nổi, vui tươi. Mọi người cùng hòa bước chân trong điệu lăm-thol đầy mê hoặc, trong điệu hát giao duyên trai gái a-day tình tứ....
Du lịch Sóc Trăng ngày càng đang phát triển với nhiều loại hình du lịch đa dạng, phong phú hấp dẫn nhiều du khách. Đến thăm quê hương Sóc Trăng hay những tỉnh ĐBSCL du khách sẽ được khám phá thêm những điều thú vị về lễ hội và bản sắc văn hóa độc đáo thông qua những lễ hội truyền thống, trong đó có tết Chôl Chnam Thmây của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.                                          
                                                                                                  Nguyễn Dũng